Bãi bỏ quy định về việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, số tạm trú khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công

Ngày 21/12/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 104/2022/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công. Nghị định có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2023.

 Theo khoản 3, Điều 38 Luật Cư trú năm 2020 có hiệu lực từ ngày 01/7/2021, thì sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy chỉ sử dụng cho đến hết ngày 31/12/2022. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy sẽ chính thức không còn giá trị sử dụng. Theo quy định tại Nghị định số 104/2022/NĐ-CP, đối với các thủ tục hành chính, dịch vụ công có yêu cầu nộp, xuất trình Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú  giấy sẽ được thay thế bằng việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công có trách nhiệm khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính và cung cung cấp dịch vụ công theo quy định. Cụ thể Nghị định quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công đối với các thủ tục:  hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm; bảo hiểm y tế; chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; chính sách phát triển giáo dục mầm non; cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nông, lâm nghiệp Nhà nước; phát triển và quản lý nhà ở xã hội; nuôi con nuôi; đất đai; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…

Theo đó, khi thực hiện các thủ tục hành chính và dịch vụ công nêu trên, Hộ gia đình, cá nhân không cần phải cung cấp, xuất trình Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú giấy mà chỉ cần  xuất trình, cung cấp các loại giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú bao gồm:

- Thẻ Căn cước công dân.

- Chứng minh nhân dân.

- Giấy xác nhận thông tin về cư trú.

- Giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

 

Nghị định cũng bãi bỏ, thay thế các cụm từ “Sổ hộ khẩu” và “Giấy tờ chứng minh nơi cư trú” tại một số điều của các nghị định:  Sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh và thủ tục hành chính trong lĩnh vực thông tin và truyền thông; quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; hướng dẫn Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng; quy định việc giao các khu vực bin nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển; quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số ít người.

Việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công được thực hiện như sau:

1. Cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phải khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.

2. Thông tin về cư trú của công dân tại thời điểm làm thủ tục hành chính được cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính ghi nhận và lưu giữ trong hồ sơ thủ tục hành chính trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh.

Việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được thực hiện bằng một trong các phương thức sau:

a) Tra cứu, khai thác thông tin cá nhân qua chức năng của Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh đã được kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc qua Cng dịch vụ công quốc gia;

b) Tra cứu thông tin cá nhân thông qua tài khoản định danh điện tử của công dân được hiển thị trong ứng dụng VNeID;

c) Sử dụng thiết bị đầu đọc đã được kết nối trực tuyến với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bao gồm thiết bị đọc mã QRCode hoặc thiết bị đọc chíp trên thẻ Căn cước công dân gắn chíp;

d) Các phương thức khai thác khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

3. Trường hợp không thể khai thác được thông tin cư trú của công dân theo các phương thức nêu trên, cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công có thể yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình một trong các giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú.

Việc yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú được nêu cụ thể trong quyết định công bố thủ tục hành chính của bộ, cơ quan, địa phương hoặc các văn bản thông báo dịch vụ của cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.


Tin liên quan

LIÊN KẾT WEBSITE

Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử






Gửi đánh giá Xem kết quả
34 người đang online